1538. Đừng Đùa Với Lửa

Hắn đã thù dai lại đổ dầu
Khua mồm lẻo mép tại vì đâu
Làng trên pháo dập không rào cản
Xã dưới rồng phun chẳng triệu chầu
Giở thói côn đồ hăm lão hạc
Tung bài xảo trá doạ bồ câu
Đừng nên thí mạng khi đùa giỡn
Lạnh lẽo cờ hoa phủ trắng đầu!

Hùng Lê

1532. Ngẫm

(Nđt, Ltvt, Ntvv, Bvđâ

Thưởng thức cà phê ngẫm sự đời
Sang hèn cũng thế cả người ơi
Trồng cây vạn tuế ân cần gởi
Dưỡng nụ tầm xuân kính cẩn mời
Bến nghĩa hoài ươm dòng chẳng vợi
Sông tình mãi cuộn nước nào vơi
Đừng mơ mộng ấm riêng mình hỡi
Nặng chữ vì nhau mới tỏ ngời

Hùng Lê

Chẳng Thiết

Âu sầu chẳng thiết nghĩ làm chi
Gốc đã dần quên có lẽ vì
Chức vụ tranh giành thân đãng trí
Danh quyền bán đổi lệ tràn mi
Qua cầu rút ván còn quen nhỉ
Ngãi bỏ vàng tham kệ ngán gì
Học lễ hành văn ngời đạo lý
Âu sầu chẳng thiết nghĩ làm chi

Nguyễn Văn Long

1531. Rượu Và Thơ

“Bầu dốc giang sơn say chấp rượu
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ”
(Bà Huyện Thanh Quan)

Bầu đầy lủng lẳng đắm hồn mơ
Dốc dựng khe sâu cỏ khoả bờ
Giang rộng thuyền bơi êm ả nhỡ
Sơn hồng nước chảy miệt mài sơ
Say sưa ngọn suối người khôn thở
Chấp chới dòng kênh kẻ vụng chờ
Rượu hết đôi thùng vui vẻ nợ
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ

Hùng Lê

1530. Mãi Nhớ Ơn Thầy

(Nđt, Ltvt, Ntvv

Thuở nọ ta nào đã biết thưa
Thầy khuyên bạn nhắc vẩn vơ chừa
Tiên thì học lễ dù khuya sớm
Hậu phải chong đèn dẫu gió mưa
Chữ đẹp ngày nao còn hẳn mới
Lời hay buổi ấy vẫn như vừa
Bây giờ tóc bạc tình luôn giữ
Nhớ mãi ơn người dạy bảo xưa

Hùng Lê

1529. Phi Thường

(Nđt, Ltvt, Ntvv, Bvđâ)

Sức mạnh phi thường của lão Trum(*)
Dù ba bốn tội chẳng mong dùm
Khi đà bảy chín lưng nào sụm
Một cõi hai lần cẳng mấy khum
Đã được tưng bừng như mở trúm
Càng thêm hớn hở tựa tha cùm
Phen này quyết dẹp bao thằng dỏm
Phản chiến, giao hoà đợi lão Trum

(*) Donal Trump
Hùng Lê

Đông Về Đất Quảng

Đông về, đất Quảng trút buồn rơi
Xóm nhỏ thu qua bộn sự đời
Bão cứ rập rình se cổ ngóng
Mưa thì dồn dập nhói tim bơi
Bao nơi trẻ học luôn gìn chắc
Mọi việc lớn đương chẳng thể rời
Nhẹ nhõm tâm can dù giá rét
Trên đường thiên lí vượt ngàn khơi.

Trần Như Tùng

1528. Khuyên Bà

Tiền nong có lẽ nhất bà
Kẻ sai người bảo còn ca cẩm gì
Ở đời sao lắm sân si
Khua môi múa mép so bì nọ kia

Khoe giàu nhận đẹp tía lia
Mà tai thiên hạ trật trìa chẳng nghe
Lên tay xuống ngón gầm ghè
Tuôn lời tục tĩu chẳng e ngại mồm

Quay đầu mới thây lôm côm
Bấc sang lại tiếc cơn nồm đã qua
Bây giờ trời đất chẳng tha
Tai bay vạ gió chửa là cái chi

Nên chăng phải biết níu ghì
Đừng quen đường cũ thị phi nửa vời
Ai thèm nhặt cánh hoa rơi
Nhiễu nhương cũng chỉ một thời mà thôi

Đừng xem cái chuyện đã rồi
Sướng mồm hả dạ tanh hôi chẳng màng
Bây giờ đường hết thênh thang
Ngựa xe cũng xéo rộn ràng còn đâu

Ngày dài cho tới canh thâu
Thức khuya dậy sớm chực chầu gọi tên
Tu cho cuộc sống vững bền
Chớ vì cái miệng mà nên nỗi này.

Con người phải biết thẳng ngay
Sấm hối tỏ bày để được vị tha
Niềm vui nho nhỏ thôi mà
Chớ để dần dà lọt thỏm xuống sông

Đừng lo những chuyện bao đồng
Nghĩa vợ tình chồng chẳng được bền lâu
Dại khôn cũng tại cái đầu
Mặt mũi âu sầu bởi hết người ưa

Nói năng cũng biết chỗ chừa
Chớ có chửi bừa họ ghét người ơi

Hùng Lê

Thương Hoài Nơi Ấy

Xướng

Ở chốn xa này mãi nhắc anh
Hằng đêm ấp ủ mộng chưa thành
Luôn chờ hạ gọi câu nồng ấm
Vẫn muốn xuân về nụ ngát xanh
Nhớ nét môi cười trao dịu ngọt
Nhìn con mắt liếc tỏa trong lành
Cho dù cách trở bao ngày tháng
Ấm áp nơi lòng chẳng mỏng manh.

Nguyễn Duyên

1527. Hạnh Phúc (2)

(Nđt, Ltvt, Ntvv, Bvđâ, Bát láy)

Bao mùa khắc khoải đợi chờ anh
Rã rượi hàng mi trước cửa thành
Ước bữa quây quần xua nẻo quạnh
Mong ngày gặp gỡ ướm trời xanh
Trầm ngâm giã biệt men tình quánh
Ảo não lìa xa giấc mộng lành
Rực rỡ xuân về tươi thắm cảnh
Trăng gầy nũng nịu chửa rời manh

Hùng Lê